bet365 football - N?n t?ng chnh th?c

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN

//oddbark.com


Sắc màu th?s?và ch?dấu văn hóa trong những t?s?làng của Phạm Quang Long (Chuyện làng(*) và Mùa rươi(**))

Phạm Quang Long khởi đầu nghiệp viết bằng th?loại kịch và ngày càng sung sức, dồi dào bút lực, cuốn hút hơn ?tiểu thuyết. Sau một vài tác phẩm mang tính luận đ?ngay t?cách đặt tên như Lạc giữa cõi người, Cuộc cờ? s?trình hiện của Chuyện làng và Mùa rươi đã m?ra những không gian đậm đặc t?chất tiểu thuyết: t?kh?năng chiếm lĩnh hiện thực đời sống đến việc khám phá s?phận cá nhân/ thân phận con người, t?s?kiến tạo cảnh quan thiên nhiên đến việc khai thác trầm tích văn hóa, t?s?hòa trộn các sắc màu thẩm m?đến việc đan xen giọng điệu, ngôn t? t?phong tục tập quán đến những biến thiên thời cuộc?Tất c?được quy t?khá nhuần nh? làm nên dấu ấn phong cách của Phạm Quang Long trong dòng mạch tiểu thuyết viết v?thôn quê đương đại.
Hình ảnh ngôi làng trong những câu chuyện dài của Phạm Quang Long là một vùng đất thuần nông như bao vùng quê thuộc lưu vực đồng bằng duyên hải Bắc B? Dù không được khoác b?cánh “sơn thủy hữu tình?nhưng vẫn được thiên nhiên ban tặng một h?sinh thái đa dạng cùng v?đẹp đặc trưng với thủy th?hài hòa có sông nước, ao h? cánh đồng lúa mênh mang, tôm, cá, ốc, rươi vô kể?cùng nhiều sản vật quanh năm mùa nào thức nấy. Song, cũng như mọi miền thôn dân khác, làng Đồng Hòa (Chuyện làng) và Hòa Đồng (trong Mùa rươi) đã trải nhiều thăng trầm cùng lịch s?đất nước, quê hương: chiến đấu, dựng xây, cầu mong độc lập t?do và cơm no áo ấm?Những ngôi làng đó chính là bức tranh thu nh?của nông thôn Việt Nam, phản chiếu các s?kiện trọng đại làm nên cuốn s?hào hùng mà đau thương của dân tộc: kháng chiến chống Pháp, phong trào cải cách ruộng đất, con đường hợp tác hóa nông nghiệp, chiến tranh chống M? xây dựng/ phát triển nông thôn mới v.v?Thời nào và ?đâu, nông dân cũng được coi là lực lượng hùng hậu của cách mạng nhưng lại ít quyền lựa chọn nhất. Những trang viết của Phạm Quang Long v?nỗi oan sai trong cải cách ruộng đất, s?giằng co “ai thắng ai?giữa tập th?và cá th?thời k?đầu xây dựng ch?nghĩa xã hội ?nông thôn cũng như những bất cập trong đường lối phát triển nông thôn mới hiện nay đều chân thực, sâu sắc. Nhưng xúc động và ám ảnh hơn c?vẫn là câu chuyện con em nông dân ra chiến trường hy sinh đ?lại nỗi đau cốt nhục vô tận. S?mất mát không th?bù đắp ấy luôn là vết thương lòng đau buốt, suốt đời không bao gi?nguôi, xoáy vào tình cảm và hằn sâu nét đau đớn, tiếc thương trên gương mặt của những người m? người v? người em... Những tháng ngày dằng dặc thương nh?ấy, h?luôn sống trong âu lo, khắc khoải mong ch? “Lá thư ấy đã chuyền qua tay hai bà m?không biết bao nhiêu lần, có khi c?buổi chiều, hai bà rỗi việc, lại ngồi gi?thư của Thùy ra đọc với nhau đ?vừa nh?thương, vừa khuyên nhau hãy yên lòng cho các con đ?nóng ruột?(Chuyện làng ?tr 395); và rơi vào mê sảng, bấn loạn, tuyệt vọng khi bặt tin đứa con yêu dấu nơi chiến trận?(Chuyện làng ?tr 460). Đó thực s?là món n?mà hậu th?chưa/ không th?tr?nổi. Đến thời hậu chiến, người nông dân lại phải “nuốt nước mắt vào trong? chật vật, loay hoay tìm cách thích nghi với những đổi thay của nhịp sống mới một cách nhọc nhằn vất v?và không thiếu m?hôi, nước mắt. Bài toán kinh t?nông thôn tưởng có lúc rơi vào tình th?“bất kh?giải?bởi vì các ch?th?là nông dân còn thiếu kinh nghiệm, cái tâm không th?thay th?tiềm lực, ý chí không th?thay th?tri thức. Nhà nông lâm vào hoàn cảnh bất lực, đành khuất phục trước cơ ch? Nhiều nghịch lý tồn tại. Nhiều giá tr?đạo đức của một vùng quê in đậm dấu tích s? địa văn hóa c?dần mai một gây nên bao tiếc nuối, bất bình. Phạm Quang Long đã mượn lời nhân vật trưởng thôn ?một nông dân “xịn? nông dân th?thiệt khi tr?lời câu hỏi của một v?lãnh đạo huyện đ?không ch?giãi bày suy nghĩ tâm tư của người làm ruộng mà còn gửi gắm vào đó tình cảm, suy tư của một người cầm bút rất nặng lòng với mảnh đất “chôn rau cắt rốn?của mình: “?Nhà nước còn n?nông dân nhiều lắm. Cái gì cũng dựa vào nông dân, nhưng nông dân thiệt nhất, con cái nông dân kh?nhất, nông thôn ít được chú ý nhất, hàng hóa nông dân làm ra nuôi c?xã hội nhưng xã hội ch?coi người nông dân ra gì. Hàng hóa bán cho nông dân đắt, mua hàng của nông dân thì r? ruộng đất của nông dân c?lấy vô tội v? ông nào thích là ra một quyết định thu hồi mà đền bù thì có là bao? Còn chính sách à? Được cũng nhiều mà hỏng cũng lắm. Nếu cái nào cũng đúng thì nông thôn không như th?này?Ch?riêng cái làng của chúng tôi sau mấy chục năm thay đổi theo ch?th?của các ông cũng ch?còn ra cái làng nữa. Cái tên làng ch?còn?Còn những chuyện khác thì coi trọng đồng tiền làm hỏng nhiều th?quá. T?nhất là tình làng nghĩa xóm bây gi?ông ạ?C?xã hội đ?cao tiền của, chức tước, lợi lộc mà bảo dân làng tôi đừng sống theo h?mà được à? Hiện đại hóa mà làm hỏng con người thì tôi ch?mong hiện đại hóa làm gì?(Mùa rươi ?tr 304).
Một trong những tiềm năng th?loại s?được tiểu thuyết hóa và hiển l?rõ rệt trong tác phẩm là bút pháp khắc họa chân dung nhân vật mang ý nghĩa thân phận. Đây có th?coi là “bản mệnh của tiểu thuyết? đồng thời cũng chính là phương diện nổi trội mang dấu ấn thi pháp của Phạm Quang Long. Theo tác gi? c?Chuyện làng và Mùa rươi đều viết v?ngôi làng thân thuộc, nơi ông được sinh ra, được tắm gội trong bầu sinh khí thôn quê vốn thiện lành, mộc mạc, ấm áp tình làng nghĩa xóm. Dù đã “gia nhập?vào cộng đồng th?thành ngót nửa th?k?nhưng Phạm Quang Long luôn sắm vai giao tiếp như một thôn dân chưa bao gi?rời xa quê hương bản quán. Ông nh?như in khung cảnh làng mạc: b?ao, ruộng lúa, ngôi chùa; am tường nếp sống, phép ứng x?và tính khí người nông dân. Những trải nghiệm từng thấm sâu vào mỗi t?bào thân th?và s?phong phú v?vốn sống ấy đã là nguồn nguyên liệu quý giúp cho việc kiến tạo gương mặt đời sống nông thôn gồm con người và cảnh vật trong tác phẩm của Phạm Quang Long luôn gần gũi, chân thật và có sinh sắc.
Hiển hiện trên từng trang sách của Phạm Quang Long là hình ảnh người nông dân thuộc nhiều kiểu loại, nhiều th?h? già, tr? giàu, nghèo; tốt, xấu; t?người có chức sắc đến dân thường, t?người vẫn gi?nguyên “b?gen?di truyền mang căn cước nông dân đến k?vong bản, vô ơn, chối b?nguồn cội?Mỗi người một thân phận, và dù muốn dù không, h?khó có th?đứng ngoài thời cuộc, nói cách khác là luôn b?cuốn vào vòng xoáy thực tại: hết bom đạn lại phải t?khâu vá, chữa lành mọi vết thương chiến tranh; hết đói cơm rách áo đến ăn ngon mặc đẹp; hết nhà tranh vách đất, nhà ngói sân gạch đến nhà cao tầng, biệt th?vườn?Là một cây bút tỉnh táo, sắc sảo, Phạm Quang Long thường nhìn nhận thực trạng nông thôn trong th?“song lập?cũ - mới, xưa - nay đ?lý giải sâu xa hơn những được - mất sau rất nhiều những biến động xã hội. Diện mạo nông thôn ngày nay được phản ánh/ tái tạo như một hiện hữu đa cực, được hình thành bởi một hình thái tư duy nhận thức và cảm quan đời sống đa chiều, đa phiến.
Nhân vật trong tiểu thuyết đ?tài nông thôn của Phạm Quang Long được quan sát ?c?ly gần. Điều thú v?hơn là đa phần các nhân vật có cá tính riêng, tạo ấn tượng mạnh với người đọc đều được chọn lọc t?các nguyên mẫu đời thực. Đó là ông lão nông dân gàn d?tên Thích, anh b?đội liệt sĩ Thùy thông minh, hiếu học, kiên cường anh dũng hy sinh ngoài mặt trận (Chuyện làng); lão Hoản - “thánh chửi?của làng Hòa Đồng; nhân vật Đỉnh ?một cựu binh/ trưởng thôn từng chiến đấu giỏi, sản xuất hăng, là điểm tựa đầy tin cậy của dân làng trong chiến dịch “dồn điền đổi thửa?cùng cơn lốc đô th?hóa nông thôn, và thú v?hơn c?đây chính là người biết làm giàu t?đặc sản rươi nức tiếng của quê nhà (Mùa rươi). Th?giới nhân vật ấy hắt bóng những vui buồn th?s??làng quê, làm nên khí cốt, tâm tính con người của một vùng đất. Diễn trình t?s?trong từng câu chuyện cho thấy Phạm Quang Long luôn có cái nhìn cởi m? ấm áp, bình đẳng và dân ch?với nông dân, đối thoại với các nhân vật của mình ngang hàng, “sòng phẳng? Ngay c?những nhân vật xếp vào hạng “tiêu cực? là cái “gai?trong mắt dân làng, thậm chí là nỗi s?hãi ám ảnh thường trực của v?con, và mặc dù tác gi?c?như “đi guốc vào bụng?những con người lọc lõi, tưởng mình khôn hết phần thiên h?như lão Thích, lão Hoản cuối cùng vẫn không gây nên mối ác cảm cho người đọc, mà ẩn chứa s?bao dung và l?phải trái ?đời. Giữa không gian làng quê, nhân vật trong tiểu thuyết của Phạm Quang Long là hiện thân cho muôn mặt đời thường đa sắc, đa diện, đan xen nhiều thái cực bi và hài, cao c?và thấp hèn, thiện và ác?Qua mỗi phận người, phận đời, ông đã ký thác vào đó tất c?yêu thương, đồng cảm, s?chia từng niềm vui, hạnh phúc nho nh?và sống với tận cùng nỗi đau của đồng bào mình: “Một cái làng bé bằng cái l?mũi, được 40 h?không mà gần hai chục liệt sĩ, thương binh? Tôi tính sơ sơ nhà nào cũng đóng góp một đến hai người. Tính c?nước thì nhiều lắm. Đúng là núi xương, sông máu…?(Lời nhân vật trong Chuyện làng ?tr 464). Sau những biến thiên thời cuộc, những va chạm, xung đột không th?tránh khỏi ?một vùng quê nghèo, Phạm Quang Long đã đúc rút nên phép ứng x?như một triết lý sống nhân ái, sâu sắc: “Đời là th? Làng cũng là một xã hội thu nh? Có cái này thì cũng lại có cái kia. Bách nhân bách tính, mỗi người một s?phận?ai sống cũng là tr?n?đời, ai cũng là kiếp sau của chính mình hay ai đó rồi lại là kiếp trước của người sau?Th?thì lúc sống hãy c?theo l?phải mà sống, d?người d?ta, vừa mắt ta, ra mắt người. Các c?nói gọn mà hay lắm nhìn nhau mà sống. Không có cái gì c?th? những ước định ch?nằm trong những l?phải thông thường thôi mà sao nó làm cho con người ngay ngắn và t?tế?(Mùa rươi ?tr 227). Đó là s?“thỏa hiệp? k?thừa, tiếp biến nhằm bảo lưu những nét đẹp trong đối nhân x?th? chuyển tải quan niệm v?đạo lý, là tập quán, phong tục làm nên giá tr?Việt bao đời. Tiểu thuyết của Phạm Quang Long theo đó, là th?“văn chương chuyên chú ?con người? Vì vậy, nó đậm đặc t?chất tiểu thuyết ?một th?loại lấy đời sống cá nhân, thân phận con người  làm tâm điểm ?và mang thông điệp nhân ái, nhân bản.
Khi viết v?đ?tài nông thôn và đời sống dân quê, Phạm Quang Long đặc biệt quan tâm đến việc kiếm tìm, giải mã các ch?dấu trong sinh th?văn hóa của mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm ông t?thư?ấu thơ đến lúc trưởng thành. Dù đã đến nhiều phương trời, từng đảm nhiệm nhiều chức v?quan trọng lĩnh vực giáo dục Đại học: Hiệu trưởng trường Đại học KHXH&NV, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, và là “thuyền trưởng?của ngành văn hóa một thời: Giám đốc S?Văn hóa, Th?thao, Du lịch Hà Nội, nhưng tâm trí ông vẫn chan chứa cảm xúc nguồn cội. Ông đã viết v?quê hương x?s?bằng tâm th?và nhãn quan của một nhà quản lý đồng thời là một người th?hưởng văn hóa. Làng Hòa Đồng hay Đồng Hòa cũng đều là một không gian văn hóa vốn thuần Việt, t?cảnh sắc thiên nhiên đến nếp sống, tập tục, ẩm thực?Tuy không s?hữu v?đẹp hùng vĩ như miền thượng du với núi cao sông rộng nhưng lại mềm mại duyên dáng bởi hàng cây, bến nước, ngôi chùa, đình làng, h?ao, cánh đồng?và người nông dân vừa là những ch?th?của đồng ruộng, vừa là ch?th?mang hành vi văn hóa nơi đây. Bản sắc của một vùng quê được bảo tồn, lưu gi?qua dòng thời gian và thực s?thăng hoa t?những điều “vô cùng xưa cũ? thường nhật, bình d?nhất. Những trò chơi con tr?như đánh đáo, th?diều, bơi lội, những sản vật trời cho gắn với môi trường t?nhiên khá đa dạng v?sinh học như cá, tôm, ốc, rươi?qua bàn tay ch?biến của người dân bản địa đã được Phạm Quang Long gi?gìn như những báu vật của ký ức và tr?thành một phần không th?thiếu trong cấu trúc tâm hồn/ bản th?chính ông.
Trong s?các tác gi?văn xuôi đương đại có niềm say mê viết v?ẩm thực, Phạm Quang Long là người đã đ?lại nhiều trang văn đặc sắc. T?những món ăn dân giã, bằng lối miêu t?t?mẩn, chăm chút, nâng niu đến từng chi tiết, qua mỗi món ăn, ông đã gửi vào đó ít nhiều quan niệm phong thủy và chút triết lý riêng. Có th?nói ông như một đầu bếp chuyên nghiệp có tay ngh?cao đang giới thiệu một “menu?dài mà món nào cũng ngon, hấp dẫn, đ?sức kích thích v?giác người đọc. Mùi thơm, hương v?của từng món ăn như ngấm vào từng con ch? gợi cảm, thấm tháp: “Vừa đun xong niêu cá rô kho, đáy nồi lót lớp lá gừng, lấy rơm vanh một vòng xung quanh, đ?trấu đốt cho cháy ngun ngún?Cá rô to c?ấy, hai lườn dày những thịt nục nạc, mắm muối nêm vừa miệng, kèm theo mấy qu?chuối ngô già kho cùng, ăn với cơm gạo mới, ngon không chê vào đâu được?(Chuyện làng ?tr 51). Tôm rảo và rạm, những sản vật của vùng nước l?hiện lên đầy màu sắc qua những nét đặc t?của một cây bút sành sỏi, rành chuyện ăn uống: “Tôm rảo bơi to con hơn những con tôm thường, con nào cũng to bằng ngón tay cái, kho lên thịt chắc và ngọt, cắn ngập răng, đầy mồm. Nhưng thích nhất vẫn là những con rạm bơi, con nào cũng to như con cà ra, con cái thì đầy gạch, con đực thì chắc như nắm cơm, thịt nhiều?Những con rạm vặt gọng ra giã riêng, lọc lấy nước cốt, mình rạch b?yếm, bóc mai, khều lấy gạch, cho nước cốt vào om, rắc ít lá lốt thái nh?dậy mùi thơm, những váng m?nổi như sao bên cạnh những đám gạch vàng như màu ngh? Th?ấy đem ăn với cơm gạo mới thì thủng nồi, trôi r? Ngon đã đành mà nó còn gợi biết bao chuyện v?đồng đất, con người, thói quen, nếp nghĩ?(Mùa rươi ?tr 103). Trong bảng thực đơn nhiều món, đúng chất ruộng đồng ấy, có th?nói ốc bươu gác bếp và rươi kho là hai món khoái khẩu, độc l?với cách thức nấu nướng cầu k?không kém những món cao lương m?v?khác: “Ốc bươu già, miệng đầy ruột đẩy c?nắp ra ngoài, sáp ánh màu đùng đục sau lớp v?được chọn mười con như một, b?vào trong một chiếc r?to, miệng đậy một chiếc sảo đ?b?hóng còn có ch?lọt xuống, đ?trên gác bếp, hơi xa ch?đun một ít cho đ?nóng quá, sau vài ba tháng cho đến đ?nửa năm là có th?lấy xuống dùng được. L?cho cái giống ốc bươu, bình thường ?ngoài ao, lúc nào cũng cần nước nhưng khi đã đ?trên gác bếp rồi, chúng ch?ăn b?hóng mà vẫn sống, lại còn béo trắng ra, con nào con nấy c?nung núc những thịt, những m? ch?đen thì đen đậm, ch?trắng thì trắng ngà những m?là m? trông rất bắt mắt, nhớt bẩn đi đâu hết ?Ốc chặt đít, làm sống ch?không luộc, đem ướp với riềng, ngh?vừa đ?xào lên với ít thịt ba ch? đậu ph?nướng khéo. Chuối luộc vừa chín tới, đem om với ốc đã xào, cho thêm bát dấm thanh, đến khi nước cạn ch?còn sôi lạch xạch, cho thêm hành hoa, lá lốt, rau ng? đ?đám rau thơm vừa tai tái thì múc ra bát, vừa ăn, vừa thổi, xì xụp th?mới sướng?(Chuyện làng ?tr 345). Món rươi nức tiếng của ẩm thực Bắc K?đã từng được truyền tụng, làm say lòng người qua những áng tùy bút tài hoa của Vũ Bằng nửa đầu th?k?XX một lần nữa lại được Phạm Quang Long tôn thành “đệ nhất khoái khẩu?bằng tất c?những gì tươi nguyên, thuần chất, b?dưỡng ch?không phải là khoanh ch?rươi tr?danh được tô điểm cầu k? bắt mắt. Nhưng đ?đạt đến thành phẩm chuẩn v?chất lượng thì đòi hỏi s?k?công, khéo léo không kém của một tay ngh?bậc cao: “Kho rươi phải dùng niêu đất, dùng nồi nhôm hay gang đều ch?ra gì. Trước hết phải lấy thật nhiều gừng, c?theo thành nồi mà lót t?trên xuống dưới khoảng hai lớp là được. Nhưng lá gừng lót đáy và cạnh nồi phải xếp vài lớp thật khéo tay, không đ?nước gia v?và bột rươi v?ra lúc sôi chảy xuống đáy nồi làm mất v?béo mà con rươi lại b?xác. Như vậy, lớp lá gừng đ?chống sát nồi là chính nhưng khi lá gừng chín, s?tỏa mùi thơm, ngấm vào con rươi cũng đang se dần, lúc ăn s?thấy c?hương lẫn v?thơm cay nhè nh?của gừng thật d?chịu. Cái v?thơm cay nh?nhàng, tinh t? quyến rũ?(Mùa rươi ?tr 122) v.v?và v.v?Lan man, dài dòng như vậy cũng là một cách đ?cùng thưởng thức mùi v?các món ăn và cảm nhận đầy đ?cái tâm, cái tình, hứng thú và tầm nhìn của người cầm bút. Bởi vì, đằng sau câu chuyện ăn uống là tín hiệu và s?tích hợp các yếu t?làm nên bản sắc văn hóa đồng bằng châu th?Bắc B? Nền ngh?thuật ẩm thực ấy tồn tại ngàn đời cùng với cơ tầng/ đặc điểm của văn minh lúa nước. Nó hiển th?như một mảnh ghép dung d? sống động trong bức khảm nhiều màu của thực th?văn hóa Việt.

Song song với việc tôn tạo/ truyền bá hình ảnh văn hóa vật th? phi vật th? một thái cực khác v?bức tranh đời sống nông thôn được đ?cập trong tiểu thuyết của Phạm Quang Long là hiện tượng những thuần phong m?tục làm nên h?giá tr?Việt ?một miền duyên hải rộng lớn đang có dấu hiệu phai màu, suy yếu. Đây thực s?là mối quan hoài đau đáu trong cảm thức văn hóa của ông. Hiện trạng nông thôn đương đại gợi nên nhiều suy tư, trăn tr? thậm chí là bất tín, hoang mang khi phải chứng kiến những hành vi ứng x?phũ phàng, thiếu/ vô văn hóa ngay ?chốn làng mạc, nơi vốn được coi là giàu sức đ?kháng, có kh?năng miễn nhiễm cao trước những gì đối lập với phong tục, tập quán lâu đời. Đã có một thời, người ta đập phá chùa chiền với danh nghĩa xóa b?mê tín d?đoan, nhưng dù vô tình hay hữu ý, đó cũng là hành động xúc phạm đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng truyền thống như một cứu rỗi, ch?che đối với người Việt xưa nay: “Con người có t?có tông, có đức tin của mình. Khi không còn tin vào cái gì nữa thì cũng là bắt đầu của tai họa đấy, ông ? Tôi không lộng ngôn đâu. Th?cúng ông bà, t?tiên, th?Thần Phật phù h?đ?trì là cái nếp của con người có trước có sau, sao lại gọi là mê tín d?đoan được? Đức Phật t?bi xưa nay ch?khuyên người ta ăn ?phúc đức ch?có khuyên chúng sinh làm hại ai bao giờ?(Chuyện làng ?tr 80). Xu hướng bê tông hóa bừa bãi, vô tội v?đã không ch?gây ra vấn nạn bức t?sinh thái, phá v?cảnh quan thiên nhiên mà còn tổn hại trầm trọng đến đạo lý, đến tình làng nghĩa xóm: “Hình hài làng ngày càng quái d? Nham nh? nhấp nhô, l?lói. Người ta ch?quan tâm đến ngôi nhà của mình ch?ch?hơi sức đâu mà đ?ý đến nhà người khác, việc người khác?Lòng d?con người cũng không còn nguyên vẹn cái chất phác như vài chục năm trước. S?tư lợi đang làm cho c?hình hài làng xóm lẫn con người đổi khác đi rất nhiều. Phần lành lặn ít hơn, cái nhếch nhác, méo mó đậm hơn?Người ta ch?chạy theo một khao khát sống sao cho sướng hơn ch?không còn chăm chút cho việc sống sao cho t?t?hơn nữa (Mùa rươi ?tr 336). Ngay c?tiếng sáo diều, một th?âm thanh trong trẻo, ngân nga, vi vút trên bầu trời quê gợi nên s?thanh sạch, yên ?cũng biến tướng thành mối ô nhiễm bởi đám đông đã “chịu thua?một “thằng cùn?  dàn đồng ca êm đềm, thanh bình b?lấn át bởi những âm thanh “náo loạn? “như đấm vào tai, đầy khiêu khích? “thỉnh thoảng lại hộc lên như tiếng chó”?Đằng sau những nghịch cảnh phản văn hóa đã được phơi bày ấy là nỗi ưu tư, suy ngẫm v?những thương thỏa văn hóa đặng bảo tồn, phát huy h?giá tr?Việt trong bối cảnh kinh t?th?trường, hội nhập, giao lưu thời m?cửa.
V?ngh?thuật t?s?và đặc điểm thi pháp, Phạm Quang Long có s?kết hợp hài hòa giữa lối viết truyền thống và tìm tòi cách tân. Hình tượng không/ thời gian qua hai tác phẩm tuy vận động theo mô hình trật t?tuyến tính nhưng không h?cứng nhắc, đơn điệu mà vẫn linh hoạt, đa dạng. ?đó có thời gian cốt truyện tuần t?đan cài thời gian đồng hiện, thời gian hoài niệm, thời gian ngoái lại?Và không gian hiện thực song tồn cùng không gian tâm tưởng, không gian thiên nhiên hiện diện bên cạnh không gian bối cảnh xã hội ?Thêm vào đó, bút pháp miêu t?tâm lý cũng là một trong những ưu th?nổi bật làm nên phong cách Phạm Quang Long. Không b?cuốn vào lối viết làm “xoắn não? rối trí người đọc bởi kết cấu mê cung, th?pháp dòng ý thức miên man, chìm đắm, tiểu thuyết của ông lôi cuốn người đọc ?những diễn giải, mô t?tâm lý sâu sắc, thấu hiểu nhân tình th?thái. Vì vậy, các nhân vật của ông (ch?yếu là nhân vật chính) luôn có đời sống nội tâm đầy đặn với những diễn biến phức tạp, nhiều chiều. Điều cuối cùng không th?b?qua ?phương diện kết cấu văn bản là s?hòa trộn, đan xen những tình thái, cung bậc đ?tạo tính đa thanh v?giọng điệu: trang nghiêm và hài hước, thương cảm và giễu nhại, thỏa hiệp và tranh biện?Đặc biệt, trong chuỗi “lời ăn tiếng nói?của các nhân vật (k?c?tích cực và tiêu cực), Phạm Quang Long đã không ngại ngần khi đ?h?thoải mái “văng tục? nhưng những phát ngôn ấy của nhân vật không h?gợi s?tục tĩu, phản cảm. Trái lại, nó như một th?gia v?tạo nên đ?mặn mòi cho các trang viết, đem lại tiếng cười hồn nhiên, sảng khoái, nhằm giải tỏa nỗi bức xúc; như một liều thuốc “x?tress?hiệu nghiệm khi con người cảm thấy quá mệt mỏi, căng thẳng. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh (nguyên Giám đốc S?Văn hóa Th?thao Du lịch Thái Bình) đã chia s?những cảm tưởng, suy nghĩ sâu sắc, thân ái của mình v?người bạn đồng hương tri âm: “Trong hầu hết các tiểu thuyết của mình, ông Long đều muốn gửi gắm những ưu tư, trăn tr?v?th?s?và cũng tranh th?c?vũ cái thiện, cái đẹp cùng những mong ước sao cho tình người, l?đời s?chấn hưng đ?cao đẹp, cao thượng như ông đã từng được dạy d? được cảm nhận t?thời còn thơ ấu, còn trai trẻ?(Mùa rươi ?tr 9). Bao trùm lên tác phẩm của Phạm Quang Long là tình thương yêu những người dân quê t?thời lam lũ, và viết đối với ông có th?coi là nghĩa c? là hành động đ?tr?món n?quê nhà, “n?non sông??br /> Tuy nhiên, bên cạnh s?giàu có v?vốn sống nông thôn, Phạm Quang Long cần chọn lọc và tiết ch?hơn, gạt b?s?rậm rạp, rườm rà đ?cốt truyện gọn và “thoáng?hơn. Ngoài ra, kiểu tư duy thiên v?tính luận đ? ham tranh luận, “lý sự?của ông đôi khi hơi “quá đà?khiến người đọc cảm thấy “mệt?và “nặng đầu”?Nhưng phần thiếu khuyết khó tránh khỏi đó chưa phải là một lực cản giảm thiểu sức lan tỏa và nguồn sinh lực lành mạnh của một cây bút đầy nhiệt tâm, giàu năng lượng.
T?hình ảnh một ngôi làng/ mẫu gốc “bé như cái khoảm bò? thông qua những câu chuyện k?mãi không vơi v?s?phận thăng trầm của một vùng đất, những vui buồn của thân phận con người, niềm tin vào s?hướng thiện và phẩm hạnh cao đẹp của nhân tính; Phạm Quang Long đã tái tạo nên một tổng th?hiện thực vừa thân thuộc, vừa khác l? Những sinh th?tiểu thuyết của ông, do vậy, luôn chứa đựng nguồn cảm hứng nhân văn sâu sắc và m?ra những đối thoại phức hợp v?diễn ngôn văn hóa dân tộc./.
(*) Chuyện làng - Nxb Công an nhân dân. H, 2020
(**) Mùa rươi ?Nxb Văn học ?H, 2022
Hà Nội, ngày 02 tháng 3 năm 2023

Tác gi? PGS.TS Lý Hà Thu

Bạn đã không s?dụng Site, Bấm vào đây đ?duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian ch? 60 giây